Trung thất là một khoang trong lồng ngực chứa một nhóm các cơ quan, mạch máu, dây thần kinh, bạch huyết và mô liên kết xung quanh của chúng. Cùng tìm hiểu về khoang trung thất qua bài viết sau
- Các biện pháp chẩn đoán và phát hiện ung thư máu
- 3 dòng thiết bị chẩn đoán hình ảnh y học phổ biến hiện nay
Tổng quan về khoang trung thất
Trung thất có chứa tất cả các nội tạng ở ngực trừ phổi, bao gồm: tim và mạch máu lớn, mạch máu bên trong vú, đầu gần của hệ thống tĩnh mạch azygos, thực quản, khí quản, thần kinh hoành, thần kinh tim, động mạch chủ ngực và các cơ quan cạnh động mạch chủ, ống ngực, tuyến ức, và các hạch bạch huyết trung thất.
Liên quan:
– Phía trên: liên tục với các mô liên kết lỏng lẻo của cổ
– Phía trước: thành ngực
– Phía bên: phổi và màng phổi
– Phía sau: cột sống ngực
– Phía dưới: cơ hoành
Phân chia giải phẫu
Sự phân chia của trung thất có thể bao gồm 3 hoặc 4 ngăn, tùy thuộc vào giản đồ: Phân loại cổ điển, phân loại theo Felson, phân loại ITMIG
Phân loại cổ điển
Kỹ thuật viên Cao đẳng kỹ thuật hình ảnh Y học Thành phố Hồ Chí Minh cho biết trên phim x quang nghiêng trung thất được chia làm 2 tầng là trung thất trên và trung thất dưới nhờ vào mặt phẳng Ludwig là mặt phẳng ngang tưởng tượng đi qua từ khớp giữa cán và thân xương ức (góc xương ức hoặc góc Louis) tới bờ dưới thân đốt sống ngực 4. Trung thất dưới chia ra làm các ngăn là trung thất trước, giữa và sau.
Cụ thể:
Trung thất trên: giới hạn phía trên là nền cổ và phía dưới là mặt phẳng Ludwig
Trung thất dưới: dưới mặt phẳng Ludwig
Trung thất trước:
- Phía trên: bờ dưới của trung thất trên
- Phía sau: phía trước màng ngoài tim
- Phía dưới: cơ hoành
Trung thất giữa:
- Phía trên: bờ dưới của trung thất trên
- Phía dưới: cơ hoành
- Phía trước: phía trước màng ngoài tim
- Phía sau: phía sau màng ngoài tim
Trung thất sau:
- Phía trước: phía sau màng ngoài tim
- Phía trên: bờ dưới của trung thất trên
- Phía dưới: cơ hoành
Phân loại theo Felson
Felson đề xuất chia trung thất thành 3 ngăn trên x quang nghiêng, phân loại này đơn giản, hữu ích trong chẩn đoán và được sử dụng rộng rãi:
Trung thất trước:
- Phía trên: nền cổ
- Phía dưới: cơ hoành
- Phía sau: phía sau bóng tim và trước khí quản
Trung thất giữa:
- Phía trên: nền cổ
- Phía dưới: cơ hoành
- Phía trước: bờ sau của trung thất trước
- Phía sau: bờ trước của trung thất sau
Trung thất sau:
- Phía trước: đường thằng đi qua mỗi điểm trên các đốt sống ngực và ở phía sau cột sống 1 cm
- Phía dưới: cơ hoành
- Phía trên: nền cổ
Phân loại ITMIG
Kỹ thuật viên kỹ thuật hình ảnh Y học Sài Gòn cho biết chia trung thất thành 3 ngăn: khoang trước mạch máu, khoang tạng và khoang cạnh cột sống:
Khoang trước mạch máu:
- Phía trên: nền cổ
- Phía dưới: cơ hoành
- Phía trước: phía sau cán xương ức
- Phía sau: phía trước màng ngoài tim
- Phía bên: màng phổi trung thất
Thành phần: tuyến ức, hạch bạch huyết, mỡ, tĩnh mạch cánh tay trái.
Khoang tạng:
- Phía trên: nền cổ
- Phía dưới: cơ hoành
- Phía trước: bờ sau của khoang trước mạch máu
- Phía sau: đường thẳng nối mỗi điểm trên các thân đốt sống ngực và phía sau bờ trước cột sống 1 cm.
Thành phần: khí quản, carena, thực quản, hạch bạch huyết, tim, tĩnh mạch chủ trên, ống ngực, động mạch chủ ( phần lên, quai, phần xuống), một phần động mạch phổi
Khoang cạnh cột sống:
- Phía trên: nền cổ
- Phía dưới: cơ hoành
- Phía trước: bờ sau của khoang tạng
- Phía sau bên: đường thẳng đứng tỳ vào bờ sau thành ngực tại bờ bên của cột sống ngực
Thành phần: cột sống ngực và phàn mềm cạnh sống.
Đặc điểm bệnh học
Nói chung, bệnh lý ảnh hưởng đến trung thất có thể được chia thành những bệnh lý dẫn đến một khối khu trú, hoặc những bệnh lý dẫn đến bệnh lan tỏa liên quan đến trung thất.
Việc chẩn đoán phân biệt một khối trung thất phụ thuộc nhiều vào vị trí của khối này trong trung thất khi chẩn đoán hình ảnh y học, vì điều này có thể tiết lộ cấu trúc nguồn gốc của khối. Do đó, có một chẩn đoán phân biệt cụ thể cho từng ngăn:
- Khối trung thất trước
- Khối trung thất giữa
- Khối trung thất sau
Trong trường hợp khó xác định vị trí do có nhiều ngăn, ITMIG đề xuất kỹ thuật “phương pháp trung tâm” trong đó điểm trung tâm trên lát cắt ngang nơi tổn thương xuất hiện lớn nhất được sử dụng để định vị. Ngoài ra, kỹ thuật “dịch chuyển cấu trúc” theo đó sự dịch chuyển các cơ quan từ các ngăn lân cận có thể được sử dụng để xác định vị trí tổn thương.
Cuối cùng, theo dõi khả năng không khí vào các khoang trung thất ( tràn khí trung thất ) có thể xảy ra khi có sự phá vỡ cấu trúc chứa không khí do chấn thương xuyên thấu, hoặc có thể do trong quá trình khám, chữa bệnh gây ra.